Trang chủHộp thư truyền hìnhQuy định việc cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung

    Quy định việc cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung

    Tôi và vợ của tôi có tài sản chung là nhà và đất. Vừa qua, vợ tôi thỏa thuận giá với chi cục Thi hành án huyện Điện Bàn về tài sản này mà không có sự ủy quyền của tôi, vậy đúng hay sai? … (Anh Nguyễn Văn Chánh ở khố 1, thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn)

    Hỏi : Tôi và vợ của tôi có tài sản chung là nhà và đất. Vừa qua, vợ tôi thỏa thuận giá với chi cục Thi hành án huyện Điện Bàn về tài sản này mà không có sự ủy quyền của tôi, vậy đúng hay sai? Vợ của tôi yêu cầu chi cục Thi hành án huyện Điện Bàn thẩm định tài sản trước khi bán đấu giá nhà của tôi nhưng chi cục Thi hành án lại trả lời là khi nào bán đấu giá không thành mới đưa ra thẩm định. Theo quy định của pháp luật thì như vậy là đúng hay sai? Trong khi chờ kết quả trả lời của Tòa án nhân dân tối và Viện kiểm sát tối cao tôi xin hoãn việc thi hành án được hay không? (Anh Nguyễn Văn Chánh ở khố 1, thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn)

    Trả lời:

    Điều 74. Luật Thi hành án dân sự quy định việc cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung như sau:

    1. Trước khi cưỡng chế đối với tài sản thuộc sở hữu chung của người phải thi hành án với người khác, kể cả quyền sử dụng đất, Chấp hành viên phải thông báo cho chủ sở hữu chung biết việc cưỡng chế. 

    Chủ sở hữu chung có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của họ đối với tài sản chung. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện thì người được thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để bảo đảm thi hành án.

    Đối với tài sản thuộc quyền sở hữu chung của vợ, chồng thì Chấp hành viên xác định phần sở hữu của vợ, chồng theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình và thông báo cho vợ, chồng biết. Trường hợp vợ hoặc chồng không đồng ý thì có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án phân chia tài sản chung trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày phần sở hữu được Chấp hành viên xác định. Hết thời hạn trên, đương sự không khởi kiện thì Chấp hành viên tiến hành xử lý tài sản và thanh toán lại cho vợ hoặc chồng của người phải thi hành án giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

    2. Tài sản kê biên thuộc sở hữu chung đã xác định được phần sở hữu của các chủ sở hữu chung được xử lý như sau:

    a) Đối với tài sản chung có thể chia được thì Chấp hành viên áp dụng biện pháp cưỡng chế phần tài sản tương ứng với phần sở hữu của người phải thi hành án;

    b) Đối với tài sản chung không thể chia được hoặc nếu việc phân chia làm giảm đáng kể giá trị của tài sản thì Chấp hành viên có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với toàn bộ tài sản và thanh toán lại cho chủ sở hữu chung còn lại giá trị phần tài sản thuộc quyền sở hữu của họ.

    3. Khi bán tài sản chung, chủ sở hữu chung được quyền ưu tiên mua tài sản.

    Do vậy việc vợ anh thỏa thuận giá với chi cục thi hành án huyện Điện Bàn như vậy là không đúng theo quy định hiện hành.

    Vấn đề thứ 2 được trả lời như sau:  Theo quy định tại Điều 98 Luật thi hành án Dân sự năm 2008: Ngay khi kê biên tài sản mà đương sự thoả thuận được về giá tài sản hoặc về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên lập biên bản về thỏa thuận đó. Giá tài sản do đương sự thoả thuận là giá khởi điểm để bán đấu giá. Trường hợp đương sự có thoả thuận về tổ chức thẩm định giá thì Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá đó.

    Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi có tài sản kê biên trong các trường hợp sau đây:

    a) Đương sự không thoả thuận được về giá và không thoả thuận được việc lựa chọn tổ chức thẩm định giá;

    b) Tổ chức thẩm định giá do đương sự lựa chọn từ chối việc ký hợp đồng dịch vụ;

    c) Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36 của Luật này.

    Theo như trong đơn thư anh trình bày, việc trả lời của chi cục Thi hành án Dân sự huyện Điện Bàn như vậy là không có cơ sở.

    Trong thời gian chờ kết quả trả lời của Tòa án nhân dân tối cao anh không có quyền xin hoãn việc thi hành án dân sự vì bản án phúc thẩm có hiệu lực ngay, theo quy định tại khoản 6 điều 279 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

    Bình chọn

    BÌNH LUẬN

    Vui lòng nhập bình luận của bạn
    Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

    ĐỌC NHIỀU