Trang chủĐất và người xứ QuảngQuảng Nam – Dấu ấn 50 năm giải phóng

Quảng Nam – Dấu ấn 50 năm giải phóng

Bước ra khỏi cảnh hoang tàn, đổ nát của chiến tranh, nhiệm vụ đặt ra cho Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam hết sức nặng nề. Tinh thần, ý chí, quyết tâm và khát vọng của con người xứ Quảng một lần nữa lại được thể hiện bằng những công trình, dấu ấn mang tầm vóc lịch sử.

Có một hội nghị “Diên hồng” giữa lòng Xứ Quảng

Sau ngày quê hương được giải phóng, từ tháng 10/1975 tỉnh Quảng Nam và Đặc Khu Quảng Đà hợp nhất thành tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng. Bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng bộ, quân và dân Quảng Nam – Đà Nẵng xác định, nhiệm vụ đầu tiên là giải phóng đồng ruộng, lấy đất sản xuất, giải quyết lương thực.

Cùng với việc khai hoang, phục hóa, rà phá bom mìn, các cấp ủy đảng đã tích cực chỉ đạo vận động nhân dân di dời mồ mả, giải phóng đất đai cho sản xuất, gắn với việc quy hoạch lại ruộng đồng, làng xóm. Đây là một chiến dịch không kém phần gay go vì đụng chạm đến phong tục, tập quán của người dân.

Trước tình hình đó, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã triệu tập hội nghị “Diên hồng” thuyết phục để người dân hiểu và thực hiện. Các địa phương, nhất là Điện Bàn, Duy Xuyên, Hòa Vang, Đại Lộc đã tập trung cho công tác tuyên truyền, phân công cán bộ tiếp xúc với những người có uy tín trong cộng đồng, tộc họ để giải thích, thuyết phục.

“Trong những năm kháng chiến, huyện Duy Xuyên nói chung, xã Duy Trung nói riêng là trọng điểm đánh phá của địch, đường sá bị địch đánh phá, hư hỏng, đất thổ cư lại nằm xen kẽ trong khu dân cư, mồ mả ông cha lại chôn trên đất thổ cư, nên việc đi lại và sản xuất hết sức khó khăn. Trước tình hình đó, cấp ủy, chính quyền xã đã đề ra chủ trương “bố trí dân cư ở trên đất cát, đất xấu, dành đất tốt, đất ở vị trí thuận lợi để sản xuất, trồng trọt”.
Từ đó, cấp ủy, chính quyền đã tuyên truyền, vận động Nhân dân di dời mồ mả ông bà, tổ tiên vào khu vực quy hoạch để dành đất ở và sản xuất. Chỉ trong một thời gian ngắn, Duy Trung đã cơ bản hoàn thành việc quy hoạch các cụm dân cư, quy tập mồ mả. Đây là một trong những chủ trương sáng tạo, mang dấu ấn của Đảng bộ xã Duy Trung”

– đồng chí Nguyễn Văn Khương, nguyên Bí thư Huyện ủy Duy Xuyên nhớ lại.

Kết quả, hàng chục ngàn ngôi mộ đã được di dời, trả lại hàng trăm ha đất canh tác. Năm 1976, toàn tỉnh khai phá được 2.000ha đất, đưa 447 hộ gia đình đến các vùng Sông Nam, Sông Bắc, Ba Viên và Nà Lau…Từ đó, một màu tươi xanh của lúa, ngô… được mọc lên, đem theo biết bao niềm vui và hy vọng về cuộc sống mới.

Lễ Khánh thành công trình Đại thủy nông Phú Ninh ngày 27.3.1986
Đồng chí Phạm Đức Nam tại hồ Phú Ninh (người thứ tư từ phải sang)

Với quyết tâm phải xóa cái nghèo đói ở vùng cát bằng chính sách khuyến khích trồng rừng, làm thủy lợi đưa nước về, cải tạo đất, chuyển hướng sản xuất, Ban Thường vụ Tỉnh ủy xác định thủy lợi là biện pháp hàng đầu và phát động phong trào quần chúng tiến quân mạnh vào mặt trận thủy lợi. Công trình Thủy lợi Phú Ninh ra đời từ ý chí, lòng quyết tâm mãnh liệt đó.

Cùng với công trình Thủy lợi Phú Ninh, nhiều hồ chứa nước được xây dựng, như: Hố Giang, Cao Ngạn, Phước Hà, Hòa Trung…; hàng loạt các trạm bơm điện, đặc biệt hệ thống kênh mương ở hai huyện Điện Bàn và Hòa Vang. Phong trào quần chúng làm thủy lợi nhỏ phục vụ sản xuất với phương châm “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, nổi bật nhất là sáng kiến “làm thủy lợi qua cát” dùng các tấm thép cuốn lại cũng như bằng gạch xây và tấm lát bê tông để đưa nước tưới về vùng cát Cẩm Châu, Cẩm Thanh.

Đây là sáng kiến của Công ty Xây dựng thủy lợi thuộc ngành thủy lợi của tỉnh, được nhân rộng ra nhiều địa phương vùng cát khác. Chính nhờ chủ động nguồn nước tưới, tỉnh đã chuyển một số diện tích từ 1 vụ lên 2 vụ, 2 vụ lên 3 vụ.

Hồ Phú Ninh

Có một vụ Phạm Xuân – Hè

Thời gian này, ta chủ trương chỉ sản xuất 2 vụ lúa, nên bình quân lương thực đầu người cả tỉnh mới đạt 150 kg/năm, vì vậy, hơn nửa triệu người thường xuyên thiếu lương thực. Từ tình hình thực tế đó, nhằm thực hiện mục tiêu giải quyết vấn đề lương thực, trên cơ sở một số giống lúa mới có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, đồng chí Phạm Đức Nam đã đề xuất với Ban Thường vụ Tỉnh ủy chủ trương sản xuất thêm vụ Xuân Hè (chen vào giữa thời gian vụ Đông Xuân và Hè Thu).

Đây là chủ trương mới, táo bạo, nhằm thay đổi tập quán canh tác lâu đời của nông dân nên ngay từ đầu đã gặp phải ý kiến khác nhau, không đồng tình. Có người cho rằng vụ Xuân Hè là chuyện ngược đời không thể thành công đã nói: “Ông Nam làm được vụ Xuân Hè thì cứ đặt ba ông Táo lên lưng tôi mà nấu cơm”. Nhưng đồng chí tin tưởng vào ý tưởng của mình, đi đâu đồng chí cũng khuyến khích sản xuất vụ Xuân Hè. “Đi đâu anh cũng vận động, thuyết phục và tập trung chỉ đạo một số hợp tác xã làm thử trước để rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó, chuẩn bị Nghị quyết của Ban Chấp hành Đảng bộ về phát triển vụ Xuân Hè trong tỉnh để thống nhất lãnh đạo thực hiện”- đồng chí Phạm Thanh Ba nhớ lại.

Bằng các biện pháp tích cực trên, nên phong trào thi đua sản xuất vụ Xuân Hè được dấy lên sôi nổi với các khẩu hiệu: “Ngày làm không đủ, tranh thủ làm đêm”, “Tối trăng thì thắp đèn”. Nhiều câu hát, bài vè động viên tinh thần sản xuất được phổ biến khắp các địa phương, nhất là các huyện Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên…Kết quả, ngay trong năm 1976, cả tỉnh đã cấy được 5.000 ha lúa vụ Xuân Hè, năng suất bình quân đạt hơn 3 tấn/ha, có nơi đạt 4 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 18.000 tấn; thu mua thêm trên 2.000 tấn lúa, góp phần giảm bớt khó khăn về lương thực. Thắng lợi bước đầu này mở ra khả năng tăng diện tích, năng suất và sản lượng vụ sản xuất Xuân Hè trong những năm tiếp theo.

Lúc bấy giờ Nhân dân trong tỉnh trìu mến gọi đồng chí Phạm Đức Nam là Phạm Xuân Hè.

Thi đua đuổi kịp và vượt ngọn cờ đầu – hợp tác xã Đại Phước

Thực hiện Chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Đại hội Đảng bộ tỉnh thứ XIII (02/1983) xác định: phát triển nông nghiệp toàn diện, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, trọng tâm là giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm nhằm tạo nên một thế vững chắc, là tiền đề quan trọng cho toàn bộ hoạt động kinh tế – xã hội. Từ đó, ngành nông nghiệp của tỉnh có nhiều biến chuyển tích cực; nổi bật là phát triển phong trào thâm canh mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu.

Năm 1981, hợp tác xã nông nghiệp Đại Phước (huyện Đại Lộc) đạt mức kỷ lục về năng suất lúa cả huyện, cả tỉnh, với 21,6 tấn/ha/năm trên toàn bộ diện tích 84ha canh tác. Liên tục 4 năm liền (1981-1984), năng suất lúa của hợp tác xã Đại Phước đều đạt trên 20 tạ/ha.

Đồng chí Võ Chí Công thăm Hợp tác xã Đại Phước, huyện Đại Lộc năm 1983

Đầu năm 1983, về thăm và làm việc với Đảng bộ và Nhân dân Đại Lộc, đặc biệt, thăm và nói chuyện với bà con xã viên Hợp tác xã Đại Phước, đồng chí Võ Chí Công biểu dương những thành tích và căn dặn hợp tác xã: “Không được chủ quan, thỏa mãn mà phải không ngừng vươn lên, nhất là phải thực hiện thật tốt “khoán 100” để động viên bà con xã viên hăng hái lao động và nâng cao hiệu quả kinh tế trong hợp tác xã nông nghiệp”. Đồng chí còn chỉ đạo toàn huyện phát động phong trào thi đua học tập, đuổi kịp và vượt hợp tác xã Đại Phước.

Chiếc máy cày MTZ50 – phần thưởng Chủ tịch HĐBT Phạm Văn Đồng tặng HTX Đại Phước

Từ đó, phong trào thi đua đuổi kịp và vượt hợp tác xã Đại Phước – ngọn cờ đầu về năng suất lúa được các hợp tác xã trong toàn tỉnh hưởng ứng. Với thành tích tiêu biểu đó, năm 1983, hợp tác xã Đại Phước vinh dự được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng tặng chiếc máy cày hiệu MTZ50. Tháng 4/1985, khi đến thăm hợp tác xã Đại Phước, đồng chí Lê Duẩn ân cần căn dặn: “Cả nước vui mừng vì Đại Phước. Các đồng chí hãy cố gắng nhiều hơn nữa, giành thắng lợi lớn hơn nữa”.

Tổng Bí thư Lê Duẩn đến thăm hợp tác xã Đại Phước, huyện Đại Lộc tháng 4.1985

Đổi mới, sáng tạo, vươn lên

Sau khi chia tách tỉnh (1997), Quảng Nam là một tỉnh nghèo với hơn 70% diện tích tự nhiên là rừng, hơn 10% là vùng cát. Cơ sở hạ tầng chưa được xây dựng bao nhiêu. Thị xã Tam Kỳ, nơi được quy hoạch tỉnh lỵ vẫn còn trong quy hoạch ban đầu…tỷ lệ đói nghèo, đối tượng chính sách… đều tập trung ở các huyện của Quảng Nam. Nhưng Quảng Nam có khá nhiều lợi thế, Quảng Nam lại là vùng đất có nhiều lợi thế và tiềm năng khoáng sản, nông lâm sản, hải sản và du lịch song chưa được khai thác tương xứng với thế mạnh vốn có của nó. Truyền thống cách mạng và văn hoá của Quảng Nam cũng là những tài sản vô giá nếu được phát huy sẽ tạo thêm những sức mạnh mới rất to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển.

Đường phố Tam Kỳ sau ngày giải phóng 24.3.1975
Nhân dân thị xã Tam Kỳ diễu hành chào mừng miền Nam hoàn toàn giải phóng (5.1975)

Phát biểu trước cán bộ, đảng viên và Nhân dân tỉnh nhà, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời – Mai Thúc Lân, nhấn mạnh: “ Truyền thống cách mạng và văn hóa của Quảng Nam cũng là những tài sản vô giá nếu được phát huy sẽ tạo thêm những sức mạnh mới rất to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển”.

Tôi tin tưởng: “Với khí thế mới, niềm tin mới, với sự cố gắng tối đa trong việc huy động nguồn nội lực và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ của Trung ương và Chính phủ, của các bộ, ngành, sự chia sẻ cả về tinh thần lẫn vật chất của Đảng bộ, đồng chí, đồng bào Đà Nẵng, nhất định trong thời gian đến, Quảng Nam sẽ vươn lên xứng đáng với truyền thống và tiềm năng của một địa danh đã đi vào lịch sử”.

Bí thư Tỉnh ủy lâm thời – Mai Thúc Lân, nhấn mạnh
Bí thư Tỉnh ủy Mai Thúc Lân (bìa phải) tại buổi Lễ đón cán bộ vào Quảng Nam được tổ chức tại Tam Kỳ ngày 21.02.1997
Quảng cảnh buổi Lễ đón cán bộ vào Quảng Nam được tổ chức tại Tam Kỳ ngày 21.02.1997

Kế thừa và phát huy truyền thống quý báu đó, ngay từ đầu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam xác định: “xây dựng đảng bộ trong sạch vững mạnh, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân được tăng cường” là cơ sở vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và phát triển quê hương. Cùng với đó là tập trung lãnh đạo xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ, tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Điểm nhấn quan trọng là quá trình ra đời và phát triển của Khu kinh tế mở Chu Lai, cùng với đó là các chủ trương phát triển kinh tế vùng đông và phía tây của tỉnh nhằm tạo sự phát triển hài hòa giữa các vùng trong tỉnh; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.

Cùng với đưa vào hoạt động sân bay Chu Lai và cảng Kỳ Hà, việc mở cửa khẩu biên giới với tỉnh Sê Kông (Lào), nâng cấp và xây mới các tuyến giao thông… đã hình thành nên mạng lưới giao thông thông suốt từ trong nước đến nước ngoài, từ tỉnh đến các huyện, thành phố, lên miền núi, vùng sâu, vùng xa.

Khu công nghiệp THACO Chu Lai

Dấu ấn nổi bật đó là sự bứt phá rất nhanh về kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân. Từ một tỉnh nghèo, thuần nông phải nhận trợ cấp hơn 70% của Trung ương, sau 20 năm tái lập, đến năm 2017, Quảng Nam đã tự cân đối ngân sách và có đóng góp về Trung ương. Đặc biệt, năm 2022 là năm thu ngân sách cao nhất sau 25 năm tái lập tỉnh, với 33.383 tỷ đồng, đạt 141% dự toán. Quy mô nền kinh tế trên 116 tỷ đồng, tăng 45 lần so với năm 1997; thu nhập bình quân đầu người đạt 76,6 triệu đồng, gấp 43 lần so với năm 1997.

Thành phố Tam Kỳ. Ảnh tư liệu

Năm 2024, Quảng Nam cùng với cả nước tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do chịu ảnh hưởng từ sự biến động của tình hình thế giới và khu vực; song, nhờ phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực, cả hệ thống chính trị trên địa bàn tỉnh đã tập trung thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ chính trị và đạt nhiều kết quả tích cực. Quy mô nền kinh tế (giá hiện hành) đạt khoảng 129 nghìn tỷ đồng. Thu ngân sách nhà nước năm 2024 ước đạt hơn 27.360 tỷ đồng, đạt 118,5% so với con số dự toán thu năm 2024 là 23.000 tỷ đồng. GRDP bình quân đầu người đạt hơn 84 triệu đồng. Tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,96% (tương ứng với 4.171 hộ nghèo). Quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội cơ bản được giữ vững, không để xảy ra bị động, bất ngờ. Hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội có nhiều chuyển biến tích cực.

Một trong những dấu ấn nổi bật của Đảng bộ tỉnh suốt chặng đường qua là phát triển số lượng lẫn đảm bảo chất lượng đảng viên. Từ gần 80 đảng viên vào cuối năm 1930, đến cuối năm 2024, toàn Đảng bộ có 1.119 tổ chức cơ sở đảng với 73.495 đảng viên. Các đảng viên đã được tôi luyện trong thực tiễn và trưởng thành vượt bậc, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên ngày càng nâng lên.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lần thứ XXII, nhiệm kỳ 2020-2025. Ảnh tư liệu

Những dấu ấn sau 50 năm giải phóng sẽ là động lực, hành trang và khát vọng để Đảng bộ và Nhân dân Quảng Nam viết tiếp những trang sử hào hùng hiện thực hóa mục tiêu “xây dựng Quảng Nam trở thành tỉnh phát triển khá của cả nước vào năm 2030”, góp phần cùng cả nước thực hiện khát vọng “đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”.

Lê Năng Đông

5/5 - (1 bình chọn)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

ĐỌC NHIỀU