Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, người sáng lập, rèn luyện Đảng ta. Công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại của Người gắn liền với lịch sử dân tộc trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, giành độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng, Người để lại cho chúng ta bản Di chúc – Bảo vật quốc gia, thiêng liêng vô cùng quý giá, kết tinh trong đó những tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân suốt đời phấn đấu, hi sinh vì Tổ quốc và nhân loại.
Trong Điếu văn tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư đã khẳng định: “Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của Hồ Chủ tịch”. Những năm sau đó, khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”1 với yêu cầu học tập và làm theo gương Bác đã được toàn Đảng, toàn dân nêu cao thực hiện, đặc biệt là thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Kỷ niệm 55 năm thực hiện Di chúc (1969 -2024) của Chủ tịch Hồ Chí Minh là dịp để chúng ta nhận thức sâu sắc hơn nữa tầm vóc lịch sử và giá trị to lớn của tác phẩm đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng thời, là dịp để mỗi cán bộ, đảng viên, học viên trường Đảng tìm hiểu, nghiên cứu, vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trong hoạt động thực tiễn, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, học tập và làm theo Người từ việc nhỏ nhất nhưng phải thiết thực, có kết quả thật sự.
Nghiền ngẫm trong 4 năm trời, chắc lọc tình cảm và suy nghĩ của cả cuộc đời, bản Di chúc đã đề cập đến những vấn đề trọng yếu của đời sống dân tộc cũng như tương lai của đất nước, trong phạm vi nghiên cứu, tác giả tập trung những nội dung chính sau:
Hồ Chí Minh nói về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược
Năm 1965, Hồ Chí Minh dự đoán: “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể sẽ kéo dài mấy năm nữa”. Năm 1969, mở đầu Di chúc, Người viết:
Nhận định về thời gian “cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài”, dự liệu “Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người”, nhưng Người khẳng định một quyết tâm lớn của Người và của cả dân tộc là: “Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn”. Từ quyết tâm đó, Người tin tưởng chắc chắn rằng ”Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”4.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một quan điểm: giành độc lập tự do của Tổ quốc là để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh. Người truyền niềm tin đó cho nhân dân qua câu thơ đậm chất Kiều của Nguyễn Du:
Thật đúng như vậy, chỉ cần còn giang sơn, gấm vóc, còn con người quả cảm, ngoan cường, chúng ta sẽ còn nhiều cơ hội để xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, tơ đẹp hơn. Đó vừa là lời động viên phù hợp với tình cảm và tâm lý dân tộc, vừa là niềm tin không lay chuyển của con người thấu suốt quy luật của lịch sử.
Lời dặn của Hồ Chí Minh về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Ngay từ buổi đầu của sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh đã có một luận điểm đặc sắc: “Cách mạng trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có Đảng cách mệnh…Đảng có vững cách mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[1]. Đề cao vai trò của Đảng và trách nhiệm của Đảng trước dân tộc là quan điểm xuyên suốt của Hồ Chí Minh. Tiếp tục mạch tư duy đó, trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh sự cần thiết phải củng cố sự đoàn kết trong Đảng, nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy mạnh công tác chỉnh đốn Đảng để qua đó Đảng có được sức mạnh và uy tín của người cầm lái.
Người khẳng định: Vấn đề đoàn kết có tầm quan trọng hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Đoàn kết là nguyên nhân thắng lợi của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. Những thắng lợi của cách mạng Việt Nam là dưới sự đoàn kết trong Đảng đem lại. Người viết: “Nhờ đoàn kết chặt chẽ” mà “Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác” 6.
Người khẳng định, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Người tâm huyết căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”[2].
Để thực hiện đoàn kết, thống nhất trong Đảng, Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, làm cho Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh. Người căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình”. Theo Người, đó là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.
Bằng chính tấm gương sáng ngời của đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tình cảm giai cấp và đồng chí trong Đảng, coi đó là một nhân tố quan trọng để đoàn kết trong Đảng. Người yêu cầu, trong Đảng “phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”.
Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nhân tố đạo đức khi Đảng trở thành đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng cầm quyền là bước chuyển trọng đại trong sinh hoạt Đảng. Đảng cầm quyền có sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc xây dựng thành công xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa. Để hoàn thành thành sứ mạng đó, Đảng ta phải “là đạo đức, là văn minh”, trong đó, đạo đức, nhân cách của người cộng sản là điểm cót lõi, là yêu cầu hàng đầu trong văn hóa Đảng.
Về đoàn viên Thanh niên
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cho thế hệ trẻ Việt Nam tình yêu thương, sự quan tâm và niềm tin sâu sắc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn viên, thanh niên là đội hậu bị của Đảng, là người chủ tương lai của đất nước. Trải qua thực tiễn cách mạng, Người nhận xét: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ”10. Người nhấn mạnh, thế hệ trẻ mới là người xây dựng thành công xã hội mới ở Việt Nam. Để họ hoàn thành vai trò lịch sử của mình, Người yêu cầu “Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”7. Sinh thời, trong mối quan hệ giữa đức và tài, hồng và chuyên, Người luôn cho rằng “đức” là gốc của “tài“, “hồng” là gốc của “chuyên“, nên trong Di chúc, Người cũng đặt yêu cầu “hồng” trước, “chuyên” sau. Quả thật, không thành nhân thì không thể thành công, nếu thực sự có đức thì cái tài sẽ đến. Người đã đi đến kết luận: Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”[3].
Với nhân dân lao động
Chủ tịch Hồ Chí có một tình cảm đặc biệt và niềm tin mãnh liệt vào nhân dân. Người nêu rõ: “Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng như ở miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng”8.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra các trách nhiệm to lớn của Đảng với nhân dân là “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”9.
Ở Hồ Chí Minh có một quan điểm thống nhất: cứ nói đến trách nhiệm thì “trước hết là nói về Đảng” nhưng cứ nói đến quyền lợi thì “đầu tiên là công việc đối với con người”. Người đã vạch ra kế hoạch hậu chiến toàn diện, thể hiện tầm nhìn, tình cảm, sự quan tâm đến mọi giai tầng trong xã hội, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, chính sách xã hội của Hồ Chí Minh đã đề cập đến mọi tầng lớp nhân dân.
Về phong trào Cộng sản thế giới
Trước sự bất hoà đang tồn tại trong phong trào Cộng sản quốc tế, Hồ Chí Minh rất day dứt. Với trách nhiệm của người cộng sản chân chính, Người tự sự: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hoà hiện nay giữa các đảng anh em”10. Đó chính là một hình thức gián tiếp, Người gửi tới những người cộng sản chân chính trên thế giới quan điểm và trách nhiệm của mình vì sự đoàn kết quốc tế của những người cộng sản.
Với chủ nghĩa quốc tế trong sáng và phương pháp tư tưởng tuyệt vời, Hồ Chí Minh không bày tỏ “lời khuyên” hay sự nhận xét đúng sai với người này, người khác, mà Người xác định trách nhiệm của Đảng ta đối với sự bất hoà ấy. Trong Di chúc, Người viết:
Người bày tỏ niềm tin “các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại”. Những lời tha thiết “tôi mong rằng”, “tôi tin chắc rằng” và những lời chí tình, chí nghĩa của Hồ Chí Minh đã làm bất cứ ai – dù thuộc về bên nào trong mâu thuẫn nội bộ của phe xã hội chủ nghĩa, dù thuộc về ý thức hệ nào trong một thế giới lưỡng cực đều phải xúc động. Người mãi mãi là biểu tượng về tinh thần quốc tế vô sản trong sáng, thủy chung và rộng hơn là về tình người cao cả.
Công việc sau chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược
Là một nhà chiến lược thiên tài, nắm vững quy luật và cục diện của cuộc kháng chiến, Hồ Chí Minh tin tưởng chắc chắn rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ thắng lợi. Trong thời điểm viết Di chúc, dù khẳng định cuộc kháng chiến “còn kéo dài”, Hồ Chí Minh đã nhìn xa đến các nhiệm vụ sau khi kháng chiến thắng lợi. Người căn dặn các công việc phải làm sau chiến tranh để đạt mục tiêu phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta là:
Ngay sau khi kháng chiến thắng lợi, công việc đầu tiên mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải ra sức làm là hàn gắn vết thương chiến tranh nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra. Theo Người, đó là một công việc cực kỳ to lớn, phức tạp và khó khăn. Người đề nghị Đảng ta phải “có kế hoạch sẵn sàng, rõ ràng, chu đáo, để tránh khỏi bị động, thiếu sót và sai lầm”.
Để hoàn thành nhiệm vụ to lớn đó, theo Hồ Chí Minh, “việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”12. Người khẳng định, “Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”.
Với niềm tin vào nhân dân, vào con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Người căn dặn Đảng và Nhà nước phải quan tâm tới mọi đối tượng trong xã hội, không quên bất cứ ai. Sự quan tâm của Người thể hiện tình thương yêu bao la của Người với mọi tầng lớp nhân dân. Hồ Chí Minh dặn lại: “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”.
Đối với các liệt sĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh dặn dò: Mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia tưởng niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
Đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp, quyết không để họ bị đói rét.
Với những người trẻ tuổi tham gia bộ đội, thanh niên xung phong là những người đã được rèn luyện trong chiến đấu, có lòng dũng cảm và tương lai của họ còn dài, Hồ Chí Minh căn dặn Đảng và Chính phủ cần chọn một số ưu tú nhất, cử họ đi học thêm các ngành, các nghề, đào tạo họ thành những người có chuyên môn giỏi, có tư tưởng tốt và lập trường vững chắc. Người cho rằng, họ sẽ là đội quân chủ lực trong công cuộc xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đảng ta phải tiếp tục thực hiện sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Người đánh giá cao công lao của phụ nữ trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Đất nước hoà bình, cần thực hiện hai điều để tiếp tục giải phóng phụ nữ: Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ phụ nữ, để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc, kể cả việc lãnh đạo. Đồng thời, bản thân phụ nữ phải cố gắng vươn lên. Theo người, thực hiện được hai điều này là “một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”.
Với nông dân, lực lượng cách mạng đông đảo nhất, Hồ Chí Minh khẳng định: Nông dân nước ta luôn luôn hết sức trung thành với Đảng và Chính phủ ta. Trong cách mạng cũng như trong kháng chiến, nông dân ta ra sức góp của, góp người, vui lòng chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Người đề nghị Chính phủ, khi sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước toàn thắng hãy “miễn thuế nông nghiệp 1 năm cho các hợp tác xã nông nghiệp để cho đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm niềm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất”[4].
Với những người trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… Hồ Chí Minh coi đó là nạn nhân của chế độ xã hội cũ. Bởi vậy, Nhà nước phải vừa giáo dục, vừa dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp đỡ họ trở nên những người lao động lương thiện.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đó là những nhiệm vụ phải thực hiện sau chiến tranh; là những công việc rất to lớn, nặng nề, phức tạp, nhưng cũng rất vẻ vang. Theo Người, công việc này là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Người nhắn nhủ, để giành thắng lợi trong cuộc chiến đấu này phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.
Với một kế hoạch hậu chiến hết sức toàn diện, bao gồm mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội – con người…, bản Di chúc lịch sử mang tầm vóc của một cương lĩnh xây dựng đất nước.
Về việc riêng
Cuối Di chúc, Hồ Chí Minh mới đề cập đến “việc riêng”, những nghi thức sau khi Người về với “thế giới người hiền”, qua đó thể hiện rõ những phẩm chất đạo đức vô cùng cao quý. Người đề nghị “chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của nhân dân”13.
Người đề nghị hỏa táng thi hài bởi như thế vừa “tốt về mặt vệ sinh, lại không tốn đất” và căn dặn “Tro xương thì tìm một quả đồi mà chôn”, “Ai đến thăm thì trồng một cây làm kỷ niệm”. “Lâu ngày, cây nhiều thành rừng, sẽ tốt cho phong cảnh và có lợi cho nông nghiệp”.
Người có tâm nguyện “Gửi một ít tro xương cho đồng bào miền Nam”. Năm 1968, Người bổ sung thêm: “Tro thì chia làm 3 phần, bỏ vào 3 cái hộp sành. Một hộp cho miền Bắc, một hộp cho miền Trung, một hộp cho miền Nam. Đồng bào mỗi miền nên chọn quả đồi mà chôn hộp tro đó”.
Như vậy, ngay cả khi căn dặn những điều về thân xác của mình thì Hồ Chí Minh cũng vẫn chỉ nghĩ về dân, chỉ lo cho dân, lo cho nước.
Về lời vĩnh biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cuối Di chúc
Những dòng cuối Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói lời vĩnh biệt, thể hiện tình yêu thương bao la và khát vọng của mình.
Trước hết, Người “để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng”14. Tiếp đó, Người “gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”15.
Cuối cùng, Người thể hiện mong muốn tột cùng, mục đích sống và mục tiêu phấn đấu suốt cuộc đời mình, đó là: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”16.
Là cán bộ, đảng viên, qua nghiên cứu tác phẩm Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tưởng nhớ Người, cần ra sức nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ, trao dồi phẩm chất đạo đức, thực hiện các quy định của Đảng về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới[5]. Thường xuyên đăng ký học tập và làm theo từ những việc làm cụ thể, thiết thực, dễ nhớ, dễ thực hiện, xác định học tập và làm theo Người là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị, tỉnh tỉnh Quảng Nam ngày càng phát triển.
Trần Ngọc Nhiều, GV Học viện Chính trị khu vực III
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, t.2. tr.289.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, t.15. tr.622.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, t.15. tr.622.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2011, t.15. tr.617.
[5] Quy định 144-QĐ/TW, ngày 9/5/2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.