Chiến tranh đã lùi xa, nhưng những ký ức về một thời bom đạn, gian khổ ở chiến khu Đại Lộc vẫn luôn hiện hữu trong tâm trí những người từng trải qua. Với tôi, đó không chỉ là những năm tháng đau thương mất mát, mà còn là hành trình trưởng thành, tôi luyện ý chí và hun đúc tình yêu nước sâu sắc…
Những ký ức không thể quên
Ngày 27 tháng 4 năm 1966 là một ngày tôi không bao giờ quên trong cuộc đời mình. Ngày ấy, tại làng Thanh Châu (xã Xuyên Thanh cũ, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam), tôi đã chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng khi lính Mỹ tràn vào làng, xả súng tàn sát dân thường. Bà ngoại, ông, em gái bé bỏng của tôi cùng bà con hàng xóm đã bị hai tên lính Mỹ da đen bắn chết ngay trước mắt tôi. Em gái tôi, với đôi mắt đen to ngấn lệ, miệng mấp máy đòi nước uống trong những phút cuối cùng – hình ảnh ấy cứ ám ảnh tôi suốt cả cuộc đời. Tôi bất lực nhìn em ra đi trong đau đớn, với vết thương hở toang, ruột lòi ra mà chẳng thể nào băng bó, cứu chữa.
Sống sót qua vụ thảm sát ấy, tôi theo Bác lên chiến khu Đại Lộc, bắt đầu hành trình tham gia kháng chiến khi mới chỉ là cậu bé 14 tuổi. Cuộc sống ở chiến khu mở ra trước mắt tôi với vô vàn gian khó, nhưng cũng từ đó, tôi tìm thấy ý nghĩa cuộc đời mình: được góp sức vào sự nghiệp cứu nước.
Trưởng thành từ chiến khu
Ngày mới lên chiến khu, công việc đầu tiên của tôi là học đánh máy chữ để làm văn thư, liên lạc cho cơ quan Trường Đảng tỉnh Quảng Đà. Những ngày đầu, trong tôi còn đầy bỡ ngỡ. Tôi cứ nghĩ chiến khu là nơi chỉ toàn những người cầm súng chiến đấu, nào ngờ đó còn là nơi của những công việc thầm lặng nhưng không kém phần quan trọng: gùi hàng, tăng gia sản xuất, tiếp tế nhu yếu phẩm… Những anh chị thanh niên xung phong đã dạy cho tôi hiểu rằng mỗi đóng góp, dù nhỏ bé nhất, cũng đều góp phần vào thắng lợi chung.


Công việc hằng ngày của tôi, ngoài đánh máy, còn là trực giao liên: đi đến các trạm để nhận công văn, giấy tờ cho cơ quan. Đường rừng Đại Lộc âm u, rậm rạp, những tiếng chim kêu, vượn hú trong màn đêm tĩnh mịch khiến cậu bé 14 tuổi sợ hãi. Những lần một mình băng rừng, vượt suối, tôi chỉ biết cắm đầu chạy cho thật nhanh, mong gặp được các anh chị thanh niên xung phong đang gùi hàng dọc đường để bớt đi nỗi cô đơn, sợ hãi.

Là em út trong cơ quan, tôi được các anh chị thương yêu, đùm bọc. Mỗi khi đi giao liên về, tôi đều được để phần miếng cơm cháy thơm lừng, hay những lúc bị sốt rét rừng hành hạ, lại được ưu tiên bát cháo nóng có thêm quả trứng gà. Những tình cảm yêu thương giản dị ấy đã sưởi ấm trái tim non nớt của tôi giữa những ngày tháng chiến tranh gian khổ.

Tôi nhớ những buổi tối dài đằng đẵng, khi bom Mỹ ném xuống gần như hằng ngày. Những trận bom ầm ầm rung chuyển cả núi rừng, nhưng chúng tôi đã quen dần, chỉ biết lánh nhanh vào hầm rồi lại tiếp tục công việc. Có những đêm nằm trong lán nhỏ, bên ngoài là tiếng côn trùng rả rích, tôi nghe lòng mình vừa run, vừa thầm quyết tâm: mình phải sống, phải lớn lên để trả thù cho người thân và em gái đã khuất.
Những ngày tháng ở chiến khu Đại Lộc đã rèn luyện tôi thành người biết chịu đựng gian khổ, biết sẻ chia, biết yêu thương đồng chí, đồng đội như anh em ruột thịt. Các anh Tam, chị Hường, chị Ba, chị Năm, chị Trung… những người đồng hành thân thiết luôn nhường nhịn, đùm bọc tôi như một thành viên trong đại gia đình lớn. Trong bom đạn ác liệt, trong sốt rét rừng hoành hành, chúng tôi vẫn kiên cường đứng vững, vì lý tưởng chung, vì niềm tin vào ngày đất nước hoàn toàn giải phóng.

Thời gian trôi qua, chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã thống nhất, nhưng ký ức về những ngày ở chiến khu Đại Lộc mãi mãi không phai trong tâm trí tôi.
Ngày gặp lại
Trong không khí kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, ngày 19 tháng 4 năm 2025, tôi nhận được thông báo từ Ban liên lạc hưu trí của Ban Tuyên huấn Quảng Đà về buổi gặp mặt đồng đội năm xưa.

Gặp lại nhau sau hơn nửa thế kỷ, tóc đã bạc, lưng đã còng, bệnh tật đeo bám, nhưng tình cảm giữa chúng tôi vẫn vẹn nguyên như thuở nào. Nhìn những người anh, người chị năm xưa, nay đã là các ông, các bà với đôi chân tập tễnh, ánh mắt mờ đục vì tuổi già và vết tích của chiến tranh, tôi không khỏi xúc động nghẹn ngào. Có người là thương binh nặng, có người bị di chứng chất độc da cam, có người đã vĩnh viễn ra đi… Nhưng những câu chuyện, những kỷ niệm về một thời bom đạn, một thời kiên cường vẫn luôn hiện hữu, như chưa hề phai nhạt. Chúng tôi tay bắt mặt mừng, ôn lại chuyện cũ, kể cho nhau nghe về cuộc sống hiện tại, về con cháu, về sự phát triển, đổi mới của đất nước. Mỗi thành tựu của quê hương, mỗi bước tiến của xã hội hôm nay đều là niềm an ủi, là phần thưởng lớn lao đối với những con người đã một thời hy sinh thầm lặng.
Trong phút giây ấy, tôi lặng người khi nhớ về những đồng đội đã hy sinh trên chiến trường, những người đã bỏ lại tuổi trẻ, ước mơ để đổi lấy hòa bình hôm nay. Trong ký ức tôi, hình ảnh những con người ấy luôn hiện lên tươi sáng, đẹp đẽ nhất. Chiến khu Đại Lộc – nơi tôi được nuôi dưỡng cả về thể chất lẫn tinh thần, nơi tôi trưởng thành trong tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng. Những anh chị ngày ấy đã truyền cho tôi lòng nhân ái, sự bền bỉ và tình yêu đất nước mãnh liệt. Hôm nay, khi nhìn lại, tôi càng thấm thía hơn những tháng ngày gian khó nhưng đầy tự hào ấy. Nếu không có những ngày ở chiến khu, có lẽ tôi đã không có được sự kiên định và bản lĩnh như bây giờ.
Chiến khu Đại Lộc không chỉ là nơi lưu giữ ký ức đau thương, mà còn là biểu tượng của tinh thần bất khuất, tình yêu nước vô bờ bến. Và với riêng tôi, đó là ngôi nhà thứ hai – nơi tôi tìm thấy ý nghĩa cuộc sống, nơi những trái tim bé nhỏ như tôi ngày ấy cùng nhau thắp sáng ước mơ độc lập, tự do cho dân tộc. Dù thời gian có trôi qua bao lâu nữa, tôi vẫn luôn nhớ mãi những ngày ở chiến khu Đại Lộc – những tháng ngày không thể nào quên trong cuộc đời mình.
Trần Văn Sơn
(Trưởng ban liên lạc đồng hương tỉnh Quảng Nam tại Hà Nội)